KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHƠN
TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH
THỦ LĂNG NGHIÊM
QUYỂN 9 – PHẦN 2
— o0o —
TUYÊN HÓA THUỢNG NHÂN
giảng thuật
— o0o —
VÔ SẮC GIỚI
* * *
Phục thứ A-nan, tùng thị hữu đính, sắc biên tế trung. Kỳ gian phục hữu, nhị chủng kì lộ. Nhược ư xả tâm, phát minh trí tuệ. Tuệ quang viên thông, tiện xuất trần giới. Thành A-la-hán, nhập Bồ-tát thừa.
Lại nữa A Nan! Từ trên đảnh của Sắc Giới, lại tẽ ra hai đường: Nếu nơi tâm xả, phát minh trí huệ, sáng suốt viên thông, bèn ra cõi trần, thành A La Hán, vào Bồ Tát Thừa, hạng này gọi là Hồi Tâm Đại A La Hán.
Giảng: “Lại nữa A Nan! Từ trên đảnh của Sắc Giới, lại tẽ ra hai đường.” Tại thời điểm này có một nẽo đường khác. “Nếu nơi tâm xả.” Một khi họ thực hành từ bỏ các tướng sắc, họ có thể khai mở trí tuệ. “Phát minh trí huệ, sáng suốt viên thông.” và họ không còn bị cản trở. Và họ thoát ra cõi trần gian. Họ có thể rời khỏi 3 cõi (cõi người, a-tu-la, trời) bằng cách đi con đường này và hoàn thành A La Hán. Họ đạt được quả vị A-La-Hán và đi vào dòng đại thừa Bồ Tát Đạo. Những vị tu hành này gọi là Hồi Tâm Đại A La Hán. Đó có nghiã là họ đã quay từ tiểu sang đại. Họ đã quay từ tiểu thừa, và xu hướng đến đại thừa.
- Như thị nhất loại, danh vi hồi tâm, đại A-la-hán. Nhược tại xả tâm, xả yếm thành tựu. Giác thân vi ngại, tiêu ngại nhập không. Như thị nhất loại, danh vi không xứ.
Nếu nơi tâm xả được thành tựu, thấy thân chướng ngại, tiêu ngại vào không, hạng này gọi là Không Xứ.
Giảng: Chúng ta đã kết thúc cuộc thảo luận về tứ thiền và bây giờ bắt đầu giải thích về tứ không xứ. “Nếu nơi tâm xả được thành tựu, thấy thân chướng ngại.” Những vị chư thiên đã buông xả phúc lạc và từ chối sự đau khổ. Họ biết rằng thân là một trở ngại trong tu hành. Họ “tiêu ngại vào không, hạng này gọi là Không Xứ.” Họ không muốn bị cản trở bởi bất cứ điều gì, và như vậy họ hồi quang phản chiếu và thấy thân thể là huyễn như hư không. Theo cách này, họ quét sạch mọi trở ngại. Những vị này đi theo con đường khác và đi vào cõi Không Xứ.
- Chư ngại ký tiêu, vô ngại vô diệt. Kỳ trung duy lưu, A-lại-da thức. Toàn ư mạt na, bán phần vi tế. Như thị nhất loại, danh vi thức xứ.
Chướng ngại đã tiêu, vô ngại vô diệt, trong đó chỉ còn A Lại Da Thức và nửa phần vi tế của Mạt Na Thức; hạng này gọi là Thức Xứ.
Giảng: “Chướng ngại đã tiêu, vô ngại vô diệt. ” Tại đỉnh của Tứ Thiền, những chư thiên muốn tiến lên phía trên, cảm thấy rằng thân thể là vật cản trở. Vì vậy, họ xóa bỏ các chướng ngại và bước vào tánh không. Bây giờ họ đã tiến tới cõi vô sắc giới, không có trở ngại nào khác về dạng vật chất. Không có vật chướng ngại, cho nên không có gì để dập tắt.
“Trong đó chỉ còn A Lại Da Thức và nửa phần vi tế của Mạt Na Thức.” Vào thời điểm này không có thân thể, chỉ còn thức. Thức đó là A Lại Da Thức , hay là thức thứ tám, được gọi là tạng thức. “Tạng” thực ra là Kho Tạng của Phật tánh. Nhưng vào thời điểm này, thức chưa hoàn toàn trở về bản tánh của Như Lai, và vì vậy nó vẫn được gọi là thức. Mỗi hành động, mỗi lời nói, một việc quý vị làm và giao tiếp trong hằng ngày được ghi lại trong thức thứ tám này. Cho các vị tu hành này, A Lại Da Thức và nửa phần vi tế của Mạt Na Thức. Mạc Na Thức là cái thức thứ bảy, được gọi là thức giao tiếp. Biến đổi diển ra trong thức này.
Nói đúng ra là vô minh nảy sinh trong thứ thứ tám, nhưng tại đây, nó rất gần để trở thành đại viên cảnh trí và được tự tại không ô uế. Chỉ khi nào các tin tức được lưu giữ trong thức thứ tám chạy đưa qua thức thứ bảy thì nó trở nên ô uế. Bây giờ, tuy nhiên, ngay cả Mạt Na Thức cũng chỉ hoạt động ở một nửa phần và do đó sự ô nhiễm vẫn còn cực kỳ tinh tế. “Những chúng sinh này là trong số những người ở Thức Xứ. Họ được tái sanh trong cõi Thức Xứ
- Không sắc ký vong, thức tâm đô diệt. Thập phương tịch nhiên, huýnh vô du vãng. Như thị nhất loại, danh vô sở hữu xứ.
Sắc và Không đã tiêu, tâm thức đều diệt, mười phương tịch lặng, chẳng có chỗ đến; hạng này gọi là Vô Sở Hữu Xứ.
Giảng: Khi họ đạt đến địa vị này, mọi thứ đều là không. Đây thực sự là một trường hợp:
Ngôi nhà bị phá hủy,
Mọi người đã biến mất.
Không còn lời để nói
Mọi thứ đã biến mất. “Sắc và Không đã tiêu, tâm thức đều diệt.” Ngôi nhà bị phá hủy, mọi người đã biến mất. Nơi quả vị trước, vẫn còn nữa Mạc Na Thức, nhưng tại quả vị này, thức thứ bảy đã mất. Khó mà dùng chữ để diển tả. Nếu quý vị không còn dùng thức, vậy làm sao quý vị có thể nói chuyện? Vậy thì không còn gì để nói nữa.
“Mười phương tịch lặng, chẳng có chỗ đến.” Tất cả thế gian trong khắp mười phương pháp giới đều biến mất. Một bầu trời tĩnh lặng tràn ngập. Không có nơi nào để đi. Cũng không có bất cứ nơi nào để đến. Không đến cũng không đi.
“Hạng này gọi là Vô Sở Hữu Xứ.” Mặc dù không có gì. Dù sao bản chất của những chúng sinh này vẫn còn. Bản chất của họ cũng giống như tánh Không. Vì vậy, các vị Vô Sở Hữu Xứ vẫn có tuổi thọ. Nó dài bao lâu? 6000 đại kiếp. Tuổi thọ của các vị chư thiên và chiều cao của họ tăng lên rất lớn giữa sắc giới và vô sắc giới. Tôi chưa nhắc tới bề cao, họ rất là to lớn. Tôi sẽ đợi tới phần cuốn và và gây ấn tượng với bạn với một số khổng lồ. Nếu bạn muốn biết tất cả các con số ở giữa, bạn có thể tra cứu thêm.
Nơi đây là cõi thiên từng cao thứ hai đến cuối cùng, và tuổi thọ của chư thiên là sáu vạn đại kiếp. Chúng tôi gọi nó là tuổi thọ, nhưng thực ra những vị chư thiên này ở trong định lâu rồi. Vào cuối thời gian đó, thời gian định lực của họ bị phá hủy, và sau đó họ lại một lần nữa tái sanh vào cõi khác. Không chắc chắn họ sẽ tái sinh vào trong cõi nào. Đây là những chúng sinh cư ngụ trong cõi Vô Sở Hữu Xứ
- Thức tánh bất động, dĩ diệt cùng nghiên. Ư vô tận trung, phát tuyên tận tánh. Như tồn bất tồn, nhược tận phi tận. Như thị nhất loại, danh vi phi tưởng, phi phi tưởng xử.
Dùng tánh thức chẳng động để diệt sự nghiền ngẫm, thành ra ở nơi vô tận lại tỏ bày tánh tận, như còn mà chẳng còn, tận mà chẳng tận, hạng này gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
Giảng: Đây là cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, cõi từng cao nhất. Tuổi thọ của các vị chư thiên là 80000 đại kiếp. Tuy nhiên, sau khi tận hưởng một thời gian phước lành trên trời, họ vẫn rơi vào sanh tử. Trong cõi Thức Xứ, ý thức thỉnh thoảng vẫn hoạt động, nhưng bây giờ nó không hề lay chuyển.
“Dùng tánh thức chẳng động để diệt sự nghiền ngẫm.” Cuối cùng thậm chí nghiềm nghẫm và các phương tiện tu hành trí tuệ đều kết thúc. “Thành ra ở nơi vô tận lại tỏ bày tánh tận.” Nơi “vô tận” đền cập đến sự vắng mặt của mọi thứ, như đã mô tả. Trong nơi vô tận, họ lại bày tỏ tánh tận. Và khi họ bày tỏ tánh tận, “như còn mà chẳng còn, tận mà chẳng tận”. Mọi thứ tuy có mà chẳng có. “Hạng này gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.”
Ở những cõi trước, một chút suy nghĩ còn lại, nhưng tại quả vị này, suy tưởng không hoạt động. Họ ở trong định 8 vạn đại kiếp. Họ là những vị chư thiên có tuổi thọ dài nhất.
Những người tu hành tới quả vị này không còn nảy sinh những ý tưởng nữa. Nhưng khi ý tưởng nảy sinh, họ vẫn bị rơi vào nẽo luân hồi trong tương lai. Họ phải trải qua việc đó.
Ví dụ, có một người tu hành trong quá khứ đã tu luyện định lực Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, và anh ta có thể bước vào cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Một ngày nọ, khi anh ta đang tu hành tại bờ biển và đang trên bờ vực sắp nhập định, một con cá trong nước quấy rầy anh ta. Trong chánh điện, những người chuyên nói chuyện được cho là một câu súng đại liên. Họ lúc nào cũng nghĩ ra cách làm phiền người khác qua những câu hỏi hay trò chuyện để quấy rộn chánh điện. Tạo ra những xáo trộn cũng giống như những con muỗi kiến gián gây phiền não.
Trong trường hợp này, đó là một con cá tạo ra sự xáo trộn. Nó lướt nhảy trên mặt nước với một tiếng “plunk”, và những kỳ công nhào lộn làm phân tâm người tu nhập định. Không thể nhập định, vị tu hành này rất giận dữ và nghĩ rằng: “Thật là một con cá phiền phức. Tôi muốn nhập định, và nó lại đến và làm phiền tôi. Tôi chưa có thần thông, nhưng khi tôi có được thần thông. Tôi sẽ hoá thành một người đánh cá và bắt ăn mầy. Cho mầy biết tội phá phách tu hành của tao.
Dĩ nhiên khi anh ta giận dữ, con cá không còn nhảy lộn nữa. Nó sợ và lội đi mất. Vị tu hành được yên tĩnh và đạt được quả vị và tái sinh ở cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Tuy nhiên sau khi vị nầy hưởng được 8 vạn đại kiếp tại cõi trời, quý vị đoán thử chuyện gì sẽ xảy ra. Nhân quả chín mùi từ một vọng tưởng giận dữ anh ta đã có tại bờ biển hôm đó. Anh ta bị rớt xuống luân hồi tái sanh làm một con cá thu lớn. Suốt nhiều kiếp luân hồi ăn cá nhỏ. Luân hồi mãi cho đến kiếp đức Phật Thích Ca bước vào thế giới và ghé tới bãi biển và thuyết Phật Pháp cho anh ta nghe. Và lúc đó anh ta mới thoát ra kiếp làm cá và tái sanh làm người. Và anh ta xuất gia và tu hành, và lần nầy anh ta đạt được quả vị A La Hán.
Dù bạn làm gì trong tu hành, đừng có bực bội. Cho dù mọi người có tốt với bạn hay không, bạn nên duy trì những suy nghĩ của lòng từ bi đối với họ, những suy nghĩ từ bi. Đừng có hận thù với bất cứ ai, đừng buồn bã vì họ. Sẽ không thành vấn đề nếu bạn đắc quả vị tu hành và vượt qua 6 nẽo luân hồi. Nhưng nếu quý vị vẫn còn trong sáu nẽo luân hồi, quý vị phải trải qua luận nhân quả cho sự hận thù của bạn. Có một câu nói xưa nói rằng:
Bạn có thể quậy nước của một nghìn con sông,
Nhưng bạn đừng não loạn thiền định của một vị tu hành.
Làm phiền một người tu hành và khiến anh ta tức giận là một vấn đề quan trọng, vì nhân quả chín mùi trong tương lai.
Thử đẳng cùng không, bất tận không lý. Tùng Bất hoàn Thiên, Thánh đạo cùng giả. Như thị nhất loại, danh bất hồi tâm, độn A-la-hán.
Hạng này xét cùng cái Không, nhưng chẳng tột lý Không; nếu từ thánh đạo Bất Hoàn Thiên mà xét cùng, hạng này gọi là Bất Hồi Tâm Độn A La Hán.
Giảng: “Hạng này xét cùng cái Không, nhưng chẳng tột lý Không; nếu từ thánh đạo Bất Hoàn Thiên mà xét cùng.” Quý vị còn nhớ tại cõi trời sắc giới, con đường tu hành chia ra 2 hướng. Một hướng tới quả vị A La Hán, có thể hồi quang phản chiếu. Bây giờ những vị tu hành đã đến con đường chót, không còn nẽo nào để đi nữa, những vị tu hành mà không hồi quang phản chiếu. Họ không thấu rõ pháp tánh không. Họ tuy có tu hành, nhưng họ không hiểu rõ. Họ không có chánh trí chánh huệ. “Hạng này gọi là Bất Hồi Tâm Độn A La Hán.” Họ không có trí huệ chân chánh. Họ không thể quay bánh xe tiểu thừa thành đại thừa. “Độn” có nghiã là ngu ngốc và ngu si đần độn.
Nhược tùng vô tưởng, chư ngoại đạo Thiên, cùng không bất quy. Mê lậu vô văn. Tiện nhập luân chuyển.
Nếu từ Vô Tưởng Thiên của ngoại đạo mà chấp thật Không, chẳng biết quày đầu, mê muội hữu lậu, chẳng nghe chánh pháp, bèn vào luân hồi.
Giảng: “Nếu từ Vô Tưởng Thiên của ngoại đạo mà chấp thật Không, chẳng biết quày đầu, mê muội hữu lậu.” Những vị trong cõi này và những vị trong 4 cõi vô sắc giới sẽ đi vào cuối nẽo đường này và chấp vào cái không, và không biết cách để trở về với chân tâm bổn tánh. Họ đi tới và trở thành mê muội và ngu si đần độn. “Chẳng nghe chánh pháp, bèn vào luân hồi.” Trong tu hành, quý vị phải giữ tâm ngay thẳng và đừng đi tới con đường sai lầm.
A-nan! Thị chư Thiên thượng, các các Thiên Nhân. Tức thị phàm phu, nghiệp quả thù đáp, đáp tận nhập luân. Bỉ chi Thiên Vương, tức thị Bồ Tát. Du tam ma đề, tiệm thứ tăng tiến. Hồi hướng Thánh luân, sở tu hành lộ.
A Nan! Những cõi trời kể trên, mỗi mỗi đều là phàm phu đền trả nghiệp quả, khi nghiệp quả trả hết bèn vào luân hồi. Thiên Vương các cõi ấy, đều là Bồ Tát tu Tam Ma Địa, lần lượt tiến lên, hướng về đường tu của Bậc Thánh.
Giảng: “A Nan! Những cõi trời kể trên, mỗi mỗi đều là phàm phu.” Quý vị đừng nghĩ rằng họ đã thành công trong việc tu hành. Họ vần là phàm phu. Họ vẫn chưa đắt được quả vị. Họ vẫn phải “đền trả nghiệp quả.” Tuy sống được lâu dài, họ vẫn phải trả những nợ khi nghiệp quả đi đến tới họ. “Khi nghiệp quả trả hết bèn vào luân hồi.”
“Thiên Vương các cõi ấy, đều là Bồ Tát”. Họ là các vị Bồ Tát hóa thân “tu Tam Ma Địa lần lượt tiến lên, hướng về đường tu của Bậc Thánh.” Họ tiến lên đắc quả vị, giác ngộ. Học được thọ ký và hướng về đường tu hành của các vị bậc thánh. Con đường tu hành cũng như con đường tu hành của các vị tu hành khác.
A-nan! Thị tứ không thiên, thân tâm diệt tận. Định tánh hiện tiền, vô nghiệp quả sắc. Tòng thử đãi chung, danh vô sắc giới.
A Nan! Cõi Tứ Không này, thân tâm dứt sạch, tánh định hiện tiền, chẳng có sắc thân của nghiệp quả; từ đây đến cùng, gọi là Vô Sắc Giới.
Giảng: “A Nan! Cõi Tứ Không này.” Đó là:
1. Không Xứ
2. Thức Xứ..
3. Vô sở hữu xứ
4. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Đây là ” thân tâm dứt sạch, tánh định hiện tiền, chẳng có sắc thân của nghiệp quả.” Họ không còn thân hình, và họ không còn dùng ý mà dùng thức bất động. Bản chất của định lực hiện tiền. Họ đã thoát ra khỏi cõi sắc giới. Họ không còn phải trải qua những cõi trời sắc giới. Họ là những vị trong cõi “Vô Sắc Giới.” Đây là cõi cuối cùng trong tam giới. Bốn cõi trên là cõi trời vô sắc giới. Đây là cõi trời cao nhất.
Thử giai bất liễu, diệu giác minh tâm. Tích vọng phát sanh, vọng hữu tam giới. Trung gian vọng tùy, thất thú trầm nịch. Bổ-đặc-già-la, các tùng kỳ loại.
Ấy đều do chẳng rõ diệu tâm sáng tỏ, tích chứa vọng tưởng, chấp thân trung ấm, tùy loại thọ sanh, vọng có tam giới, nên vọng theo bảy loài mà chìm đắm. Bổ-đặc-già-la, tùy nghiệp mà luân hồi
Giảng: Những chúng sinh trong tam giới “ấy đều do chẳng rõ diệu tâm sáng tỏ”. Họ không có đủ trí huệ để thấu hiểu và đi đến giác ngộ. Họ “tích chứa vọng tưởng, chấp thân trung ấm, tùy loại thọ sanh, vọng có tam giới.” Từ trong tâm chứa đầy vọng tưởng, sự sai lầm hiện tiền. Vô minh được sanh ra trong bản chất của chân lý. Cả tam giới được tạo ra bởi sự vô minh của chúng sanh. Khi “nên vọng theo bảy loài mà chìm đắm.” Chúng ta thường nhắc tới sáu cõi luân hồi, nhưng tại đây kinh nhắc tới bảy. Bởi vì con đường của vô sắc giới bao gồm trong đây. 7 loài đó là:
Cõi Thiên, A Tu La, Tiên, Người, Súc sanh, Ma Quỷ, Địa Ngục
Chúng đầu thai lên rồi xuống, đột nhiên tái sanh trên cõi trời và rớt xuống địa ngục. Họ đi từ cõi người qua cõi ngạ quỷ. Đó là “Chìm Đắm”. “Bổ-đặc-già-la, tùy nghiệp mà luân hồi” “Bổ-đặc-già-la” là tiếng Phạn có nghiã là chúng sanh. “tùy nghiệp mà luân hồi” có nghiã là chúng sanh luân hồi tuy theo nghiệp quả báo mà họ đã gây ra. Nếu họ là các vị tiên thần, họ sẽ theo người cùng loại. Nếu thiện quả thì vào cõi trời, và họ tập trung với các chư thiên khác. Nếu họ sanh làm A Tu La, họ tập trung với các vị A Tu La khác. Các chúng sanh khác cũng như vậy
A TU LA
* * *
Phục thứ A-nan, thị tam giới trung, phục hữu tứ chủng, A-tu-la loại.
Lại nữa A Nan! Trong tam giới còn có 4 loại A Tu La:
Giảng: “A Tu La” là tiếng Phạn. Đôi khi nó được dịch là “không phải thần”. Đó bởi vì một số A Tu La có các phước lành của trời nhưng không phải là đức hạnh của các vị chư thiên. Một cách dịch khác là “Không thẳng đứng trong diện mạo”; tuy nhiên, chỉ có phái nam là như vậy. Những phái nữ thì vô cùng xinh đẹp. A Tu La được tìm thấy trong bốn cõi: sanh từ tử cung, từ trứng nở, sinh ra từ độ ẩm và hoá sanh. Mỗi loại bây giờ sẽ thảo luận.
- Nhược ư quỷ đạo, dĩ hộ pháp lực, thành thông nhập không. Thử A-tu-la, tùng noãn nhi sanh. Quỷ thú sở nhiếp.
Nếu từ loài quỷ, dùng sức hộ pháp, nhờ thần thông vào trong hư không; loại A Tu La này là noãn sanh, thuộc về loài quỷ.
Giảng: Một số ma quỷ là quỷ tốt và hoạt động như những vị hộ pháp. Vị tướng Quan Công là một thí dụ như vậy. Ông ta là một con quỷ rất vĩ đại và uy mạnh. Những loại ma quỷ hộ trì tam bảo. Họ dùng thần thông để vào tánh không. Những vị A Tu La nầy là “loại noãn sanh, thuộc về loài quỷ.
- Nhược ư Thiên trung, hàng đức biếm trụy. Kỳ sở bốc cư, lân ư nhật nguyệt. Thử A-tu-la, tùng thai nhi xuất. Nhân thú sở nhiếp.
Nếu từ cõi trời, thất đức bị đọa, chỗ ở gần với nhựt nguyệt; loại A Tu La này là thai sanh, thuộc về loài người.
Giảng: “Nếu từ cõi trời, thất đức bị đọa, chỗ ở gần với nhựt nguyệt.” Họ bắt đầu ở trên cõi trời, nhưng họ không có đức hạnh để ở lại cõi đó. Họ ngã xuống và bị ném ra ngoài không gian trống rỗng. Họ cư trú ở những nơi gần mặt trời và mặt trăng. Những “loại A Tu La này là thai sanh, thuộc về loài người.”
- Hữu tu la Vương, chấp trì thế giới, lực đỗng vô úy. Năng dữ Phạm Vương, cập Thiên đế thích, tứ thiên tranh quyền. Thử A-tu-la, nhân biến hóa hữu, thiên thú sở nhiếp.
Có vua Tu La, thống lãnh tất cả A Tu La trên thế giới, sức mạnh vô úy, có thể tranh quyền với Phạn Vương Đế Thích và Tứ Thiên Vương, loại A Tu La này là hóa sanh, thuộc về loài trời.
Giảng: Có một loại khác là những vị “vua Tu La, thống lãnh tất cả A Tu La trên thế giới, sức mạnh vô úy.” Sức mạnh của họ thật là to lớn. Họ có thể rung động cả thế giới. Nếu họ dùng bàn tay nắm đầu núi Tu Di và đẩy, họ có thể lập đổ núi. Đó là sức mạnh họ có. Với thần thông, họ nghĩ rằng họ “có thể tranh quyền với Phạn Vương Đế Thích và Tứ Thiên Vương”. Họ dùng thần thông để tranh quyền.
A Tu La Vương có một người con gái trở thành lý do tại sao ông ta tranh đấu với Đế Thích. Cô ta là một tiên nữ đẹp giáng trần, và khi Đế Thích thoáng nhìn thấy cô ta. Đế Thích đi gặp A Tu La Vương để cưới hỏi. A Tu La Vương đồng ý. Hoá ra cô ta là một người ghen tuông và ích kỷ. Đế Thích là người thích lắng nghe Phật pháp và cũng thường xuyên tới nghe các vị pháp sư thuyết pháp. Cô ta để ý và thấy Đế Thích thường vắng mặt và cô ta bắt đầu ghen tuông. Cô ta nghĩ: “Ông ta đã cưới tôi rồi, nhưng ông ta không thương tôi nữa. Tôi chắc ông ta đi ra ngoài và ngoại tình.” Với tấm lòng ghen tuông, cô ta âm thầm lén đi theo Đế Thích. Một hôm cô ta biết được chỗ Đế Thích thường tới. Khi Đế Thích vừa tới nơi chánh điện và ngồi vào chổ, cô ta nhìn thấy có rất nhiều tiên nữ trong chánh điện. Cảnh đó làm tâm ghen tuông càng bực cháy, và ngay lúc đó cô ta hiện hình. Khi Đế Thích thấy cô ta, ông ta hỏi: “Cô tới đây làm gì ?”
Cô ta trả lời với giọng nói ghen tuông: “Ông tới đây để quen với các phụ nữ khác và không muốn tôi tới phải không”
Đế Thích tát cô ta một bạt tay, và cô ta bắt đầu khóc than và chạy về nhà của A Tu La Vương để mét lại. “Ông Đế Thích đã phá vỡ luật vợ chồng và luôn đi kiếm phụ nữ khác.” Cô ta mét lại : “Khi con theo ông ta, ông ta đánh con”
Dĩ nhiên khi A Tu La Vương nghe chuyện này, ông ta giận dữ. “Chúng ta sẽ chiến tranh. Chúng ta sẽ lật đổ hắn và chiếm lấy ngai vàng.” Ông ta ra lệnh tất cả binh lính A Tu La và kiêu gọi các tướng sĩ tham gia ra trận đánh Đế Thích. Vậy đoán ra sao ?
Các thiên binh của Đế Thích, tứ đại thiên vương không thể chống lại quân của A Tu La. Cung thành bị bao vây và bế tắt. Cuối cùng, Đế Thích đến cầu cú với đức Phật. “Con phải làm sao? ” ông ta hỏi “Con không thể đánh lại quân lính A Tu La”
Đức Phật trả lời: “Con hãy về và nói với các quân sĩ của con và kêu họ hãy niệm câu Bát Nhã “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”. Ta bảo đảm mọi chuyện sẽ trở nên ổn thỏa. Đế Thích trở về và làm theo lời dặn, và các A Tu La đầu hàng vô điều kiện. Đó là cách Đế Thích đã thắng trận. Nhưng các loại A Tu La vẫn luôn tranh đấu chức vị và thẩm quyền.
- A-nan! biệt hữu nhất phân, hạ liệt tu la. Sanh đại hải tâm, trầm thủy huyệt khẩu. Đán du hư không, mộ quy thủy tú. Thử A-tu-la, nhân thấp khí hữu, súc sanh thú nhiếp.
A Nan, riêng có một số A Tu La thấp kém sanh ở đáy biển, lặn dưới hang nước, ban ngày dạo trên hư không, ban đêm về ngủ dưới nước; loại A Tu La này là thấp sanh, thuộc về loài súc.
Giảng: “A Nan, riêng có một số A Tu La thấp kém sanh ở đáy biển, lặn dưới hang nước.” Những vị A Tu La này nằm trong loại súc sanh. Rồng và các loại như vậy là các loại này. Khi chúng suy nghĩ rất nhiều về nước về biển, họ cuối cùng tái sanh trong đó.
“Ban ngày dạo trên hư không, ban đêm về ngủ dưới nước.” Họ quay lại hang động dưới nước vào ban đêm. “Loại A Tu La này là thấp sanh, thuộc về loài súc sanh.”
A-nan! Như thị địa ngục, ngạ quỷ súc sanh, nhân cập thần tiên. Thiên kịp tu la, tinh nghiên thất thú. Giai thị hôn trầm, chư hữu vi tưởng. Vọng tưởng thọ sanh, vọng tưởng tùy nghiệp. Ư diệu Viên Minh, vô tác bản tâm. Giai như không hoa, nguyên vô sở hữu. Đãn nhất hư vọng, cánh vô căn tự.
A Nan! Bảy loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi người, thần tiên, cõi trời và A Tu La kể trên, đều là những tướng hữu vi hôn trầm, vọng tưởng tùy nghiệp thọ sanh. Thật ra thảy đều như hoa đốm trên không, vọng hiện nơi bản tâm vô tác sáng tỏ, vốn vô sở đắc, chỉ một hư vọng, chẳng có cội gốc.
Giảng: “A Nan! Bảy loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi người, thần tiên, cõi trời và A Tu La kể trên.” Những vị này vẫn còn sắc thân. Họ “đều là những tướng hữu vi hôn trầm, vọng tưởng tùy nghiệp thọ sanh.” và vọng tưởng sẽ đưa chúng và cõi sanh tử kế tiếp. “Thật ra thảy đều như hoa đốm trên không, vọng hiện nơi bản tâm vô tác sáng tỏ, vốn vô sở đắc.” Bảy loài chúng sanh giống như hoa đốm giữa hư không, không có nơi để nương tựa. Chúng “chỉ một hư vọng, chẳng có cội gốc.”
A-nan! Thử đẳng chúng sanh. Bất thức bản tâm, thọ thử Luân-hồi. Kinh vô lượng kiếp, bất đắc chân tịnh. Giai do tùy thuận, sát đạo dâm cố. Phản thử tam chủng, hựu tắc xuất sanh, vô sát đạo dâm. Hữu danh quỷ luân, vô danh thiên thú. Hữu vô tướng khuynh, khởi Luân-hồi tánh.
A Nan! Những chúng sanh này, chẳng nhận được bản tâm, bị luân hồi trải qua vô số kiếp, chẳng được chơn tánh trong sạch, ấy đều do tùy thuận ba nghiệp sát, đạo, dâm; hoặc ngược lại ba thứ đó, thành không sát, đạo, dâm; vọng thấy “Có” thì là loài quỷ, vọng thấy “Không” thì là loài trời; Có và Không thay phiên nhau, phát khởi tánh luân hồi.
Giảng: “A-nan, những chúng sanh trong bảy loài, không nhận ra bổn tâm phải trải qua luân hồi trong vô số kiếp. Họ không biết chơn tánh chân thật vốn có sẵn không cần làm gì, và họ cứ tiếp tục trải qua trong sáu nẽo luân hồi. Họ sanh và lại chết. Họ chết rồi lại tái sanh. Trong một kiếp, họ là trâu bò, và kiếp kế tiếp, họ làm ngựa. Và có thể trong một kiếp tiếp theo, họ có thể trở lại làm người. Đó là kiếp luân hồi. Cứ tiếp tục bao lâu? Không có cách để tính được bao nhiêu kiếp họ phải trải qua như vậy.
Họ “chẳng được chơn tánh trong sạch.” Họ không bao giờ khai mở chân tâm bổn tánh. Tại sao? “Ấy đều do tùy thuận ba nghiệp sát, đạo, dâm.” Họ bị đìm chắm trong đó và không thể dừng lại. Hay là bởi vì họ ngược lại ba thứ ác nghiệp đó. và họ sanh ra theo không sát, không cướp và không dâm vọng. Nếu họ có hành vi sát sanh, cướp giật và dâm vọng, họ đo vào cõi ma quỷ, nơi bạn bè và gia tộc của họ cũng là ma quỷ. Nếu họ thoát ra khỏi ác nghiệp, họ được tái sanh làm chư thiên. Những luân hồi lên xuống giữa hiện tại và sự vắng mặt của nghiệp pháp khởi tánh luân hồi. Sự liên tục tranh đấu giữa sự tạo nghiệp và không tạo nghiệp cứ tiếp tục diễn ra. Có khi họ tạo ra ác nghiệp, có khi lại không. Đó là tánh luân hồi.
Nhược đắc diệu phát, tam ma đề giả, tức diệu thường tịch. Hữu vô nhị vô, vô nhị diệc diệt. Thượng vô bất sát, bất thâu bất dâm. Vân hà cánh tùy, sát đạo dâm sự.
Nếu ngộ pháp Tam Ma Địa, thì diệu Tâm thường tịch, hữu vô bất nhị, bất nhị cũng diệt, những việc không sát, đạo, dâm còn chẳng có, huống là thuận theo sát, đạo, dâm
Giảng: Đối với những người đã ngộ pháp Tam Ma Địa, thì diệu Tâm thường tịch, hữu vô bất nhị. Có vài người trong bảy loài chúng sanh có thể ngộ được pháp Tam Ma Địa, Đó là Lăng Nghiêm Đại Định. Họ quay lại tánh nghe và hồi quang phản chiếu, và bản tánh đến được con đường chánh đạo. Họ tu hành theo nhĩ căn viên thông và đạt được định lực và trí tuệ chân chánh. Nếu cả 3 ác nghiệp hiện tiền, họ phải trả qua 3 cõi thấp của địa ngục, ma quỷ và súc sanh. Nếu 3 ác nghiệp vắng mặt, họ có thể đâu thai làm người, thánh, tiên hay A Tu La. Nhưng trong cõi này, những nghiệp không tồn tại hay biến mất. “bất nhị cũng diệt”. Sự vắng mặt chia đôi ra 3 ác nghiệp và 4 nẽo đường cũng biến mắt luôn. “Những việc không sát, đạo, dâm còn chẳng có, huống là thuận theo sát, đạo, dâm.” Nếu trên căn bản không có, thì làm sao có việc tham gia trong hành vi ác nghiệp? Làm sao các ác nghiệp tạo ra ? Nó không phải.
A-nan! bất đoạn tam nghiệp, các các hữu tư. Nhân các các tư, chúng tư đồng phần. Phi vô định xứ, tự vọng phát sanh. Sanh vọng vô nhân, vô khả tầm cứu.
A Nan, chẳng dứt ba nghiệp thì chúng sanh mỗi mỗi đều có nghiệp riêng, do nghiệp riêng ấy, trong đồng phận của chúng sanh, chẳng phải là không có chỗ nhất định. Đó là do tự tạo vọng nghiệp, vọng vốn chẳng nhân, chẳng thể truy cứu cội gốc.
Giảng: “A Nan, chẳng dứt ba nghiệp thì chúng sanh mỗi mỗi đều có nghiệp riêng.” Những chúng sanh nào không dứt ba nghiệp, sác cướp dâm, sẽ mang cái nghiệp riêng. “Do nghiệp riêng ấy, trong đồng phận của chúng sanh, chẳng phải là không có chỗ nhất định.” Khi chúng sanh tạo ra những nghiệp chướng riêng, họ phải trải qua quả báo chung. Đây gọi là cộng nghiệp. Không phải là trùng hợp ngẫu nhiên. Không phải một tình huống tùy ý. Tuy nhiên, mọi chuyện xảy ra có lẽ chính xác, cái chính xác đó là kết quả của cái vô minh. Nguồn gốc không có đầu, cho nên trong kinh nói rằng: Tuy chúng – nghiệp riêng và cộng nghiệp – là do tự tạo vọng nghiệp, vọng vốn chẳng nhân. Vọng không có sắc. Vọng không có nguồn. Gốc của nó là không là bất thực. Nó “chẳng thể truy cứu cội gốc.” Quý vị có thể tìm nhưng quý vị không kiếm ra nguồn. Nó tạo ra từ vọng và tự nó diệt. Quý vị có thể cố gắng tìm kiếm nguồn gốc, nhưng nó không có hiện hữu. Nó như bónh hình, và quý vị sẽ không thành công tìm kiếm nguồn gốc của nó. Quý vị có thể nói rằng nguồn gốc của nó là thân sắc, nhưng cái bóng hình vẫn không phải là sắc thân của nó. Bóng dạnh chỉ là ảo ảnh.
Nhữ húc tu hành, dục đắc bồ đề, yếu trừ tam hoặc. Bất tận tam hoặc, túng đắc thần thông. Giai thị thế gian, hữu vi công dụng. Tập khí bất diệt, lạc ư ma đạo. Tuy dục trừ vọng, bội gia hư ngụy. Như Lai thuyết vi, khả ai lân giả. Nhữ vọng tự tạo, phi Bồ-đề cữu. Tác thị thuyết giả, danh vi chánh thuyết. Nhược tha thuyết giả, tức Ma Vương thuyết.
Ngươi khuyên người tu hành, muốn đắc đạo Bồ Đề, phải trừ dứt ba nghiệp. Nếu ba nghiệp chẳng dứt, dẫu được thần thông, cũng đều là những công dụng hữu vi của thế gian, tập khí chẳng diệt thì lạc vào ma đạo, dù muốn trừ vọng, càng thêm giả dối. Như Lai nói là kẻ đáng thương xót. Vậy, vọng do người tự tạo, chẳng phải lỗi của Bồ Đề, thuyết như thế gọi là chánh thuyết, chẳng thuyết như thế tức là tà thuyết.
Giảng: Đức Phật nói với Anan, “Con nên khuyên các người tu hành, muốn đắc đạo Bồ Đề, phải trừ dứt ba nghiệp.” Ba cái ác nghiệp đó là sát sanh, cướp và dâm vọng. Chúng gọi là ảo vọng. Nơi đây bởi vì các nghiệp tạo ra từ vọng tưởng. Nếu chúng sanh không lầm lẫn và bị lừa dối, nghiệp chướng sẽ không được tạo ra. “Nếu ba nghiệp chẳng dứt.” Đó là, nếu còn một chúc nho nhỏ vọng tưởng về 3 ác nghiệp, chỉ nho nhỏ như một sợi lông mà không từ bỏ được – “dẫu được thần thông, cũng đều là những công dụng hữu vi của thế gian.”
Có thể họ được một chúc thần thông hay là một chúc trí tuệ, nhưng những thứ đó không thể tính rằng là thần thông vô điều kiện. Nó nằm trong sắc và hình dáng tùy theo phương tiện sử dụng. Nó chỉ là thần thông bám vào hình dáng. “Tập khí chẳng diệt thì lạc vào ma đạo.” Nếu các tập khí như sác cướp dâm không dừng lại, quý vị sẽ rơi vào ma đạo trong tương lai
Bây giờ quý vị thấy tại sao tôi nói rằng thế này thế nọ, người tu hành như vậy là ma vương. Chúng không tuân theo luật giới về cấm sát sanh, cướp và dâm vọng. Nến một người làm như vậy, làm sao người đó có thể có được trí tuệ chân chánh. Không thể được.
“Dù muốn trừ vọng, càng thêm giả dối.” Họ thêm sai trong sai, lầm trong lầm lẫn. Họ bắt đầu với nói dối, và nói sai lầm. Nhưng sau đó, họ nói họ không có nói dối, và đó lại thêm lừa dối. Nếu quý vị nói dối, vậy thì không có lý do gì để cải. Nhận tội và đó chỉ là một tội. Nhưng khi không nhận lời nói dối, họ đành mang 2 tội. Theo cách này, tội lỗi gấp đôi. “Như Lai nói là kẻ đáng thương xót.” Những kẻ không bao giờ làm việc đúng là kẻ đáng thương xót. “Vậy, vọng do người tự tạo, chẳng phải lỗi của Bồ Đề.” Tất cả sự vọng tưởng mê lầm và nghiệp quả là thứ mà người tự tạo ra. Chẳng phải lỗi của Bồ Đề. Vì vậy, họ không thể nói rằng: “Nếu chúng con là Phật, tại sao lại có vọng tưởng. Họ đã lầm lẫn khi nói như vậy.
“Thuyết như thế gọi là chánh thuyết.” Nếy quý vị nói như vậy, quý vị nói theo chánh pháp. “Chẳng thuyết như thế tức là tà thuyết.” Nếu giải thích mà không theo con đường chân chánh, thì đó là tà ma ác quỷ nói. Quý vị nên nhìn phân rõ chánh tà. Pháp nói từ ma vương thì căn cứ theo vọng tưởng giả tạo. Thí dụ, ma vương biết một chuyện nhưng nói rằng không biết. Đó là nói dối. Người tu hành nên biết rằng trí tuệ thẳng thắn là Bồ Đề. Luôn luôn thẳng thắn trong mọi tình huống. Đừng lừa dối.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét